Làm nhiều việc thiện, làm việc tốt thì có thể vào Nước Trời sao
Tôi sinh ra trong một gia đình Công giáo. Linh mục của chúng tôi luôn nói nên tuân theo những điều răn của Đức Chúa Trời, yêu thương nhau, tham dự thánh lễ, và làm nhiều việc thiện. Ông ấy nói chỉ những người vậy mới là tín hữu sốt sắng và khi Chúa đến, Ngài sẽ đưa họ lên vương quốc thiên đàng. Tôi thường tự nhủ: “Mình phải làm như những gì Đức Chúa Trời phán, tuân theo quy tắc hội thánh và tích cực làm nhiều việc thiện, để rồi được Chúa yêu thương và khi tái lâm, Ngài sẽ ban phước lành và đưa mình lên vương quốc của Ngài”.
Sau khi vào đại học, tôi đã bảo lưu kết quả học tập để có thêm thời gian phụng sự ở nhà thờ. Những người đi lễ khác trông rất ngoan đạo khi ở nhà thờ, cầu nguyện và tham dự thánh lễ, nhưng sau đó lại hút thuốc, rượu chè và tiệc tùng đến điên dại. Tôi thấy rất phản cảm. Tôi đã nghĩ, “Chúa dạy ta yêu mến Ngài, giúp những người khốn khó, và tránh xa những cám dỗ vật chất. Những người này trông có vẻ tin vào Chúa nhưng họ thật sự chẳng làm gì cho Ngài. Họ thèm khát những thứ trần tục và tìm kiếm khoái lạc. Như thế không phải là làm trái lời dạy của Chúa hay sao? Mình không được giống như họ. Mình sẽ làm việc tốt cho Chúa để có thể vào vương quốc thiên đàng khi thời khắc đến”.
Nhưng dần dần, tôi thấy mình cũng không thể gìn giữ được những điều răn của Đức Chúa Trời trong cuộc sống hàng ngày. Cứ lúc nào tôi thấy những tín hữu ham mê khoái lạc đang sống vui vẻ và tự do trong khi tôi phải sống rất chật vật, tôi không ngừng trách móc Đức Chúa Trời. Chúa dạy chúng ta yêu thương nhau như chính bản thân mình nhưng tôi đã luôn ganh tị và coi thường mọi người. Gia đình trách mắng khi tôi làm điều sai nhưng tôi chỉ viện cớ, ngụy biện và tức tối với họ. Chúa dạy chúng ta khiêm hạ và biết tha thứ nhưng tôi đã không tuân thủ. Tôi thấy thật tội lỗi, cứ như mình chỉ là tín hữu trên danh nghĩa. Tôi bắt đầu suy ngẫm: “Sao mình không thể vượt qua được tội lỗi của mình? Dù mỗi lần phạm tội, mình đã xưng tội với linh mục, và làm việc thiện để bù đắp lại, rốt cuộc mình vẫn tái phạm tội lỗi đó. Sao Đức Chúa Trời có thể ban phước lành cho một tín hữu mình chứ?” Nhưng rồi tôi lại nghĩ về điều mà linh mục luôn bảo chúng tôi rằng chỉ cần xưng tội với ông sau khi phạm tộilà sẽ được tha thứ, chỉ cần làm việc cho Chúa và tích nhiều đức thì Ngài sẽ lại nhân từ, ban phước lành và cho phép chúng tôi vào vương quốc của Ngài. Trong Kinh Thánh có nói: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa; tôi đã chạy đến cùng đường; tôi đã kiên giữ lòng tin. Kỳ dư, triều thiên công chính đã được dành sẵn cho tôi” (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Tôi thấy được an ủi khi đọc đoạn này. Tôi đã tưởng chỉ cần tham dự thánh lễ thường xuyên, đi xưng tội, và tiếp tục dâng trọn bản thân mình vì Chúa là đã có hy vọng được vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Nên tôi đã luôn bận rộn làm việc thiện. Tôi ghé thăm người ốm và các tù nhân, làm tình nguyện ở một trại mồ côi.
Một ngày nọ vào năm 2017, tôi lướt Facebook để xem tin tức như thường lệ thì bỗng thấy một bài viết mà một người chị em tên là Betty đăng. “Dù có nhiều người tin vào Đức Chúa Trời, nhưng ít ai hiểu được đức tin nơi Đức Chúa Trời nghĩa là gì, và họ phải làm gì để tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời. … ‘Niềm tin nơi Đức Chúa Trời’ nghĩa là tin rằng có một Đức Chúa Trời; đây là khái niệm cơ bản nhất liên quan đến đức tin nơi Đức Chúa Trời. Hơn thế nữa, việc tin rằng có một Đức Chúa Trời không giống với việc thật lòng tin vào Đức Chúa Trời; nói đúng hơn, đó chỉ là một loại đức tin đơn thuần mang đậm màu sắc tôn giáo. Đức tin thật sự nơi Đức Chúa Trời nghĩa là như sau: Trên cơ sở niềm tin rằng Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng trên vạn vật, một người trải nghiệm lời Ngài và công tác của Ngài, gột sạch tâm tính bại hoại của mình, thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời, và bắt đầu biết đến Đức Chúa Trời. Chỉ có hành trình loại này mới có thể được gọi là ‘đức tin nơi Đức Chúa Trời’. Vậy mà con người thường xem việc tin Đức Chúa Trời như điều gì đó đơn giản và phù phiếm. Những người tin vào Đức Chúa Trời theo cách này đã đánh mất đi ý nghĩa của việc tin vào Đức Chúa Trời, và mặc dù họ có thể tiếp tục tin cho đến phút cuối cùng, họ sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời chấp thuận, bởi họ đã đi con đường sai. Ngày nay, vẫn còn có những người tin vào Đức Chúa Trời theo câu chữ và trong học thuyết rỗng tuếch. Họ không biết rằng họ thiếu thực chất của niềm tin nơi Đức Chúa Trời, và họ không thể nhận được sự chấp thuận từ Đức Chúa Trời. Vậy mà họ vẫn cầu nguyện với Đức Chúa Trời mong nhận được phước lành bình an và đầy đủ ân điển. Chúng ta hãy dừng lại, lắng lòng mình và tự hỏi: Lẽ nào việc tin vào Đức Chúa Trời thật sự là việc dễ nhất trần đời? Lẽ nào việc tin vào Đức Chúa Trời không có ý nghĩa gì hơn việc nhận nhiều ân điển từ Đức Chúa Trời? Liệu những người tin vào Đức Chúa Trời mà không biết về Ngài, hoặc những người tin vào Đức Chúa Trời nhưng lại chống đối Ngài, có thể thực sự đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời hay không?” (“Lời xuất hiện trong xác thịt”). Những lời này thực sự rất tươi mới. Tôi ngay lập tức bị hút hồn. Nhất là tôi chưa từng suy xét những vấn đề ở cuối bài viết. Tôi đã nghĩ: “Thật tuyệt vời! Đây là lời của ai? Chỉ một đoạn ngắn như thế mà đã hoàn toàn tỏ lộ ý nghĩa của đức tin vào Đức Chúa Trời và điều ta muốn đạt được từ đức tin ấy”. Tôi nghiền ngẫm những lời này, tĩnh lặng tâm hồn và sốt sắng suy xét lại đức tin của mình lần đầu tiên trong đời. Tôi hồi tưởng lại những năm đức tin của mình. Tôi đã tham gia vào rất nhiều hoạt động và nghi lễ của hội thánh, rất tích cực trong công việc mục vụ và làm việc thiện trong cộng đồng, tôi đã chịu chút khổ nạn và cũng đã trả giá. Nhưng tôi đã làm những điều đó để gia đình và bản thân được ban phước lành và được Đức Chúa Trời bảo vệ, nhất là để được vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Tôi luôn nghĩ mình đã đúng khi mưu cầu những điều đó, rằng Đức Chúa Trời sẽ hài lòng với đức tin của tôi, và tôi sẽ nhận được lời hứa và phước lành của Ngài. Nhưng sau khi đọc những lời đó, tôi đã lờ mờ nhận thấy hàm ý sâu xa hơn nhiều đối với đức tin của mình. Tôi đã tích cực làm việc thiện và hy sinh bản thân chỉ để được nhận phước lành của vương quốc và đó không phải tình yêu chân thật dành cho Đức Chúa Trời. Sao Đức Chúa Trời có thể khen ngợi loại đức tin đó chứ? Nhưng rồi tôi nghĩ về hơn 20 năm mình đã tin vào Chúa như thế nào, luôn bận rộn với công việc mục vụ ra sao. Chẳng lẽ mọi gian khổ và hy sinh của tôi đều mất công vô ích? Càng suy ngẫm những lời đó, tôi càng muốn xem trang Facebook của chị Betty còn có gì nữa để có thể làm rõ những suy nghĩ của mình. Tôi liên hệ với chị ấy và chúng tôi đã có một cuộc họp qua mạng.
Tôi nói cho chị ấy biết cảm xúc của mình khi đọc những lời đó: “Những gì chị đăng lên mạng thực sự tuyệt vời. Nó cho tôi thấy tôi tin vào Chúa chỉ để được ban phước lành, đó không phải là tình yêu chân thật dành cho Chúa. Nhưng có một điều tôi không hiểu. Kinh Thánh nói, ‘Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa; tôi đã chạy đến cùng đường; tôi đã kiên giữ lòng tin. Kỳ dư, triều thiên công chính đã được dành sẵn cho tôi’ (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Linh mục của tôi luôn nói chỉ cần tiếp tục công tác tốt và làm việc thiện thì Chúa sẽ ban phước lành và chúng ta sẽ được vào vương quốc của Ngài. Tôi đã làm vậy suốt bao năm đức tin của mình. Chúa sẽ thực sự không nhớ gì hay sao? Tôi sẽ không được vào vương quốc của Ngài sao?”
Rồi chị Betty thông công với tôi: “Luôn làm việc vất vả, hy sinh thân mình, làm nhiều việc thiện vì Chúa sẽ làm Chúa hài lòng, và khi Ngài tái lâm, chúng ta sẽ được Ngài cất lên vương quốc của mình. Đây là điều mà Phao-lô đã nói. Đức Chúa Jêsus chưa từng nói như thế, và cả Đức Thánh Linh cũng không. Những lời này chỉ đại diện cho quan điểm riêng của Phao-lô, và chúng không phải là ý Chúa. Những lời của con người không phải là lẽ thật. Chỉ những lời của Đức Chúa Trời mới là lẽ thật. Nói đến vấn đề quan trọng như bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời, lời của Đức Chúa Trời phải là trước hết. Nếu nghe theo lời của con người chúng ta sẽ bị lạc khỏi đường lối của Chúa! Vậy thì chính xác ai có thể vào vương quốc thiên đàng? Đức Chúa Jêsus nói rất rõ ràng: ‘Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời’ (Ma-thi-ơ 7:21). Điều này cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời không xem xét ta hy sinh bao nhiêu khi quyết định ai được vào vương quốc. Thay vào đó, Ngài sẽ xem ta có thực hiện ý muốn của Ngài hay không. Như thế, để bước vào vương quốc, mọi người phải tự mình thoát khỏi bản tính tội lỗi và được làm tinh sạch, và họ phải thực hiện lời của Đức Chúa Trời, vâng phục, yêu mến và thờ phụng Ngài. Nếu chúng ta làm việc vất vả, công tác và hy sinh thật nhiều, nhưng không nghe theo lời Đức Chúa Trời, thường xuyên phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời, thì chúng ta chính là những kẻ bất lương. Loại người đó không thể bước vào vương quốc. Những người Pha-ri-si Do Thái chống đối Chúa, họ đã phụng sự Đức Chúa Trời năm này qua năm khác ở trong đền thờ và truyền bá phúc âm của Đức Chúa Trời khắp tứ phương. Họ đã chịu lắm khổ nạn và trả giá đắt. Bề ngoài, họ có vẻ tận hiến cho Đức Chúa Trời, nhưng họ thực ra chỉ quan tâm đến tổ chức nghi lễ tôn giáo. Họ gìn giữ và rao giảng những truyền thống và giáo lý của con người, vứt bỏ luật pháp và điều răn của Đức Chúa Trời. Sự phụng sự của họ hoàn toàn trái với ý muốn của Đức Chúa Trời và lạc ra khỏi đường lối của Ngài. Khi Đức Chúa Jêsus đến để thực hiện công tác, những người Pha-ri-si công khai chống đối Ngài, cố gắng bảo vệ địa vị và kế sinh nhai của mình. Họ điên cuồng lên án và vu khống Ngài, bằng mọi giá ngăn cản mọi người theo Ngài. Cuối cùng, họ cấu kết với chính quyền La Mã để đóng đinh Đức Chúa Jêsus lên thập giá, xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, và phải chịu sự trừng phạt của Ngài. Điều này chứng tỏ dù mọi người làm việc chăm chỉ và hy sinh rất nhiều, không có nghĩa họ đang thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu họ không được làm tinh sạch hết tội lỗi, mọi người sẽ phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời kể cả khi họ dành trọn bản thân cho Ngài. Chính chúng ta đấy. Dù chúng ta có vẻ làm việc chăm chỉ, tốt bụng, biết trao đi và giúp đỡ các giáo hữu, nhưng mục đích của ta là để được ban phước lành và vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời ban phước lành, ta tạ ơn và tán dương Ngài. Khi đau ốm hay chuyện tồi tệ xảy ra, ta trách móc và hiểu nhầm và thậm chí còn có thể phản bội Ngài. Thông thường ta toàn phóng đại sự hy sinh và việc tốt của mình, phô trương sức chịu đựng và làm việc cho Đức Chúa Trời nhiều cỡ nào, để những người khác ngước nhìn và thần tượng mình, và để ta có được danh lợi và địa vị. Ta nổi giận khi gặp những người hoặc những thứ mình không thích, ta không thể tuân theo lời Đức Chúa Trời và cứ thế. Điều này cho ta thấy ta không làm những việc này vì yêu mến hay để làm Đức Chúa Trời hài lòng, mà là để thỏa thuận với Ngài. Ta chỉ đang lợi dụng và lừa dối Đức Chúa Trời để thỏa mãn tham vọng và ham muốn của riêng mình. Vậy thì làm sao ta có thể là những người thực hiện ý muốn của Cha trên trời được? Kinh Thánh nói: ‘Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh’ (1 Phi-rơ 1:16). Đức Chúa Trời là thánh khiết, nên làm sao Đức Chúa Trời có thể dẫn dắt những người ô uế như chúng ta vào vương quốc thiên đàng? Chỉ có cách loại bỏ bản tính tội lỗi, được làm tinh sạch và không còn phạm tội hay chống đối Đức Chúa Trời thì ta mới được Đức Chúa Trời khen ngợi và đủ tư cách bước vào vương quốc của Ngài”.
Khi nghe chị ấy nói, tôi đã nghĩ: “Mình từng nghĩ mình có thể bước vào vương quốc bằng cách làm việc tốt, nhưng giờ có vẻ như mình đã thực hành đức tin trái với ý muốn của Đức Chúa Trời. Mọi người chỉ có thể bước vào vương quốc bằng cách trở nên thánh khiết nhưng mình không biết làm cách nào để trở nên thánh khiết”. Tôi đã chia sẻ suy nghĩ của mình với chị Betty.
và chị ấy đã đọc một vài đoạn có liên quan đến lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Một tội nhân như các ngươi, người vừa mới được chuộc, và chưa được thay đổi hoặc được Đức Chúa Trời hoàn thiện, ngươi có thể hợp lòng Đức Chúa Trời sao? Đối với ngươi, ngươi vẫn còn bản ngã cũ của mình, đúng là ngươi đã được cứu rỗi bởi Jêsus, và ngươi không bị xem là một tội nhân nhờ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nhưng điều này không chứng minh rằng ngươi vô tội và không ô uế. Làm sao ngươi có thể nên thánh nếu ngươi chưa được thay đổi? Bên trong, ngươi bị bủa vây bởi sự ô uế, ích kỷ và hèn hạ, nhưng ngươi vẫn muốn được ngự xuống với Jêsus – ngươi phải may mắn lắm! Ngươi đã bỏ qua một bước trong niềm tin của mình vào Đức Chúa Trời: Ngươi chỉ đơn thuần đã được chuộc, nhưng ngươi vẫn chưa được thay đổi. Để ngươi hợp lòng Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời phải đích thân thực hiện công tác thay đổi và thanh tẩy ngươi; nếu ngươi chỉ được chuộc thì ngươi sẽ không có khả năng đạt được sự nên thánh. Theo cách này, ngươi sẽ không đủ tư cách để dự phần trong những phước lành của Đức Chúa Trời, vì ngươi đã bỏ qua một bước trong công tác quản lý con người của Đức Chúa Trời, là bước then chốt để thay đổi và hoàn thiện. Và vì vậy, ngươi, một tội nhân vừa được chuộc, không có khả năng trực tiếp thừa kế cơ nghiệp của Đức Chúa Trời”. “Mặc dù Jêsus đã làm nhiều công tác giữa con người, Ngài chỉ hoàn thành sự cứu chuộc toàn thể nhân loại và trở thành của lễ chuộc tội cho con người; Ngài vẫn chưa loại bỏ khỏi con người tất cả những tâm tính bại hoại của họ. Để hoàn toàn cứu con người khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan, không chỉ cần Jêsus trở thành của lễ chuộc tội và chịu những tội lỗi của con người, mà còn cần Đức Chúa Trời làm công tác vĩ đại nữa để hoàn toàn loại bỏ khỏi con người tâm tính sa-tan bại hoại của họ. Và vì thế, khi con người đã được tha tội, Đức Chúa Trời đã trở lại trong xác thịt để dẫn dắt con người vào thời đại mới, và bắt đầu công tác hành phạt và phán xét. Công tác này đã đưa con người vào một cõi cao hơn. Tất cả những ai vâng phục dưới sự thống trị của Ngài sẽ thụ hưởng được lẽ thật cao hơn và nhận lãnh ơn phước lớn hơn. Họ sẽ thật sự được sống trong sự sáng và họ sẽ có được lẽ thật, con đường, và sự sống” (“Lời xuất hiện trong xác thịt”). Rồi chị Betty nói, “Trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Jêsus chỉ thực thiện công tác cứu chuộc. Sau khi tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài, ta chỉ cần thú tội và ăn nănthì mọi tội lỗi sẽ được tha thứ, rồi ta có thể tận hưởng ân điển và phước lành Ngài ban cho. Đúng là Đức Chúa Jêsus tha thứ cho mọi tội lỗi, nhưng Ngài không hóa giải bản tính tội lỗi và tâm tính Sa-tan của chúng ta. Sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, chúng ta bị tâm tính bại hoại chi phối, chẳng hạn như kiêu ngạo, gian dối, tà ác ương ngạnh, nên ta không ngừng phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời. Chính bản tính Sa-tan là nguồn gốc của tội lỗi và nếu không loại bỏ, chúng ta sẽ không bao giờ ngừng phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời và ta sẽ không bao giờ đủ tư cách bước vào vương quốc. Thế nên Chúa đã nói Ngài sẽ tái lâm vào thời kỳ sau rốt, bày tỏ lẽ thật để thực hiện công tác phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời để hoàn toàn làm tinh sạch và thay đổi tâm tính Sa-tan của chúng ta. Sau đó chúng ta có thể thoát khỏi tội lỗi và hoàn toàn được Đức Chúa Trời cứu rỗi và thu nhận. Như Chúa đã tiên tri: ‘Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lĩnh chịu các lời của Ta, thì có người xét xử nó: ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết’ (Giăng 12:48). ‘Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi, nhưng hiện giờ, các ngươi không mang nổi. Song khi nào Ngài đến, vì là Thần khí sự thật, Ngài sẽ đưa các vào tất cả sự thật; vì không phải tự mình mà Ngài nói, nhưng nghe gì Ngài sẽ nói ra, và Ngài sẽ loan báo cho các ngươi những điều sẽ đến’ (Giăng 16:12-13). Chỉ có cách tiếp nhận công tác phán xét của Chúa đã tái lâm vào thời kỳ sau rốt thì ta mới được làm tinh sạch khỏi sự bại hoại của mình. Chỉ khi đó ta mới đủ tư cách thừa hưởng những hứa hẹn của Đức Chúa Trời và bước vào vương quốc của Ngài”.
Thông công của chị Betty giúp tôi mở rộng tầm mắt. Suốt bao năm qua, tôi đã phạm tội rồi xưng tội với linh mục và đã chăm chỉ làm việc thiện, nhưng tôi vẫn không thể ngăn bản thân khỏi phạm tội. Giờ tôi đã biết Đức Chúa Jêsus chỉ thực hiện công tác cứu chuộc, khi tin vào Ngài, ta mới chỉ được tha thứ tội lỗi, nhưng bản tính tội lỗi vẫn còn trong chúng. Thế nên tôi vẫn cứ sống trong vòng luẩn quẩn phạm tội rồi thú tội mãi. Cách duy nhất để được làm tinh sạch khỏi sự bại hoại là tiếp nhận công tác phán xét của Chúa đã tái lâm vào thời kỳ sau rốt. Rồi chúng ta mới có thể thật sự yêu thương và vâng phục và bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Suy nghĩ đó làm tôi rất vui. Giờ tôi đã có hy vọng được thoát khỏi tội lỗi và bước vào vương quốc!
Hôm sau, chị Betty đã mở cho tôi nghe một câu chuyện có tên là: Đấng Cứu Thế đã trở lại trên một “đám mây trắng”. Nó thực sự khiến tôi xúc động và tôi cảm thấy những lời đó thật có thẩm quyền. Chị ấy hào hứng nói với tôi, “Chúa mà chúng ta hằng khao khát đã trở lại dưới Đức Chúa Trời Toàn Năng nhập thể. Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ nhiều lẽ thật và thực hiện công tác phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời. Những gì ta đọc hôm qua và câu chuyện ta nghe hôm nay đều được chính Đức Chúa Trời Toàn Năng phán. Ngài đã đến, khai bảy niêm ấn và mở cuốn kỳ thư nhỏ. Ngài đã tỏ lộ toàn bộ lẽ nhiệm mầu mà ta chưa từng hiểu được và ban toàn bộ lẽ thật mà ta cần để hoàn toàn cứu rỗi và làm tinh sạch. Điều này ứng nghiệm lời tiên tri trong Sách Khải Huyền: ‘Ai có tai thì hãy nghe Thần khí phán dạy gì cho các hội thánh’ (Khải Huyền 3:6). Việc nghe thấy tiếng Đức Chúa Trời hôm nay là nhờ sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, và chúng ta đã được ban phước lành!”
Tôi đã vui mừng khôn xiết và rất cảm động khi nghe tin Chúa đã tái lâm. Câu chuyện tôi đã nghe và những lời tôi đã đọc hôm trước đều là lời Đức Chúa Trời. Hèn gì chúng có thẩm quyền như thế! Còn ai có thể tỏ lộ lẽ nhiệm mầu về cách Chúa tái lâm như thế? Không ai ngoài Đức Chúa Trời có thể làm điều này. Tôi đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng những lời này được Đức Chúa Trời bày tỏ và Chúa đã tái lâm. Sau đó tôi đã rất vui sướng. Tôi chưa từng tưởng tượng mình sẽ có thể nghênh tiếp sự tái lâm của Chúa. Tôi thấy thật may mắn! Tôi chỉ có một câu hỏi: “Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét như thế nào để làm tinh sạch và hoàn toàn cứu rỗi con người?”
Rồi chị Betty đọc cho tôi nghe đoạn này trong lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng để trả lời câu hỏi đó. “Trong thời kỳ sau rốt, Đấng Christ dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để phơi bày bản chất của con người, và để mổ xẻ những lời nói và hành động của con người. Những lời này bao gồm nhiều lẽ thật khác nhau, chẳng hạn như bổn phận của con người, con người nên vâng lời Đức Chúa Trời như thế nào, con người nên trung thành với Đức Chúa Trời ra sao, con người phải sống trọn nhân tính bình thường, cũng như sự khôn ngoan và tâm tính của Đức Chúa Trời như thế nào, v.v. Tất cả những lời này đều nhắm vào bản chất của con người và tâm tính bại hoại của họ. Cụ thể, những lời vạch trần cách con người hắt hủi Đức Chúa Trời, được phán ra liên quan đến việc con người là hiện thân của Sa-tan và là một thế lực thù địch chống lại Đức Chúa Trời như thế nào. Trong quá trình thực hiện công tác phán xét của mình, Đức Chúa Trời không chỉ đơn giản làm rõ bản tính của con người bằng một vài lời; Ngài phơi bày, xử lý và tỉa sửa qua thời gian dài. Những phương pháp phơi bày, xử lý và tỉa sửa này không thể được thay thế bằng những lời thông thường, mà phải bằng lẽ thật mà con người đã hoàn toàn đánh mất. Chỉ có những phương pháp như thế này mới có thể được gọi là sự phán xét; chỉ thông qua kiểu phán xét này thì con người mới có thể bị khuất phục và hoàn toàn bị thuyết phục để quy phục Đức Chúa Trời, và hơn nữa mới có được kiến thức thực sự về Đức Chúa Trời. Điều mà công tác phán xét mang lại là sự hiểu biết của con người về diện mạo thật của Đức Chúa Trời và sự thật về sự phản nghịch của chính mình. Công tác phán xét cho phép con người đạt được nhiều hiểu biết về ý muốn của Đức Chúa Trời, về mục đích công tác của Đức Chúa Trời, và về những lẽ mầu nhiệm mà họ không thể hiểu được. Nó cũng cho phép con người nhận ra và biết được thực chất bại hoại và nguồn gốc sự bại hoại của mình, cũng như khám phá ra sự xấu xa của con người. Những tác dụng này đều do công tác phán xét mang lại, vì thực chất của công tác này thực ra là công tác mở ra lẽ thật, đường đi và sự sống của Đức Chúa Trời cho tất cả những ai có đức tin vào Ngài. Công tác này là công tác phán xét được thực hiện bởi Đức Chúa Trời” (“Lời xuất hiện trong xác thịt”). Sau khi đọc đoạn này, chị Betty đã nói, “Vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời Toàn Năng công tác để phán xét và làm tinh sạch nhân loại bằng lời của Ngài. Ngài phán xét sự phản nghịch và bất chính của con người, phơi bày bản tính Sa-tan và tâm tính bại hoại chống đối Đức Chúa Trời, phán xét và phơi bày ham muốn phước lành và đức tin ô uế của chúng ta, các quan điểm sai lầm và quan niệm khác nhau về Đức Chúa Trời. Ngài còn cho ta thấy cách trở nên trung thực, cách phụng sự phù hợp với ý muốn của Ngài, cách để thật sự vâng phục và yêu mến Ngài, cách để thực hiện ý muốn của Ngài, và nhiều nữa. Nhờ nếm trải sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời, ta thấy được mình đã bị Sa-tan làm bại hoại như thế nào, và mọi thứ ta sống thể hiện ra như thế nào – kiêu ngạo, gian dối, tà ác đều xuất phát từ tâm tính Sa-tan của ta. Nhờ vậy ta thấy được tâm tính công chính, thánh khiết của Đức Chúa Trời không dung thứ sự xúc phạm, và ta bắt đầu căm ghét bản thân, cảm thấy hối hận và tập trung vào thực hành lẽ thật. Rồi tâm tính sự sống của ta bắt đầu thay đổi. Đạt được toàn bộ những điều này là nhờ lời phán xét của Đức Chúa Trời. Sau đó chị Betty chia sẻ trải nghiệm của mình. Trong đức tin trước đây, chị ấy luôn nghĩ mình yêu thương Chúa vì đã nhiệt tình hiến dâng bản thân, nên chị ấy thường cầu nguyện, xin Chúa ban ân điển và phước lành. Chị ấy tin chắc vì chị ấy đã chịu khổ nạn vì Chúa, Ngài chắc chắn sẽ ban thưởng cho chị ấy được vào vương quốc. Sau khi chị ấy tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời vào thời kỳ sau rốt và bị phán xét và phơi bày bởi lời của Ngài, chị ấy thấy quan điểm về đức tin của mình đã sai lầm và bị ô uế: chị ấy không tin Đức Chúa Trời bằng tình yêu thương hay thực hiện bổn phận của một kẻ thụ tạo, mà chỉ để thỏa mãn thèm muốn phước lành của bản thân và để nhận phước lành của vương quốc. Đây chính là lợi dụng Đức Chúa Trời và thỏa thuận với Ngài. Chị ấy đã quá ích kỉ, không có một chút nhân tính hay lý trí nào, và chị ấy đã hoàn toàn hối hận và căm ghét bản thân mình. Chị ấy bắt đầu theo đuổi lẽ thật như Đức Chúa Trời yêu cầu và quan điểm sai lầm trong đức tin của chị ấy đã được sửa chữa. Tâm tính Sa-tan gian dối của chị ấy cũng bắt đầu thay đổi. Chị ấy đã thấy cách duy nhất để thật sự hiểu chính mình và được làm tinh sạch khỏi sự bại hoại chính là tiếp nhận sự phán xét và hình phạt trong lời của Đức Chúa Trời.
Nghe chị thông công, tôi đã thấy Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt thực tế như thế nào và cách nó thực sự có thể thay đổi và làm tinh sạch mọi người ra sao. Tôi thấy được ta cần Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét của Ngài vào thời kỳ sau rốt nhiều như thế nào và giờ ta đã có một con đường để thoát khỏi sự bại hoại. Tôi đã rất xúc động. Trong những lần họp sau đó, chị Betty nói cho tôi biết lẽ nhiệm mầu trong sự nhập thể của Đức Chúa Trời, cách mà Sa-tan làm bại hoại con người, cách Đức Chúa Trời cứu rỗi con người từng bước một, nội tình Kinh Thánh, kết cục và đích đến nào đang chờ đợi nhân loại và nhiều nữa. Chị ấy nói với tôi những lẽ thật mà tôi chưa từng được nghe trong 20 năm tin vào Đức Chúa Trời. Càng đọc những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi càng cảm thấy đó chính là tiếng Đức Chúa Trời. Chỉ có Đức Chúa Trời nhập thể mới có thể bày tỏ những lời có thẩm quyền và đầy quyền năng như thế. Ngoài Đức Chúa Trời ra, còn ai có thể phơi bày lẽ thật trong sự bại hoại của nhân loại do Sa-tan gây ra? Còn ai có thể chỉ cho ta sai lầm trong đức tin và cho ta thấy con đường đúng đắn trong niềm tin của mình? Còn ai có thể tỏ lộ những lẽ nhiệm mầu trong kế hoạch 6.000 năm của Đức Chúa Trời và nói cho ta kết cục và đích đến nào đang chờ đợi mình? Tôi đã tin chắc rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Chúa đã tái lâm – Ngài chính là Đấng Christ vào thời kỳ sau rốt! Sau đó tôi vui sướng tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng vào thời kỳ sau rốt. Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời Toàn Năng đã chọn và cứu rỗi tôi.